Carolyn cuối cùng đã trốn thoát. Lúc ba giờ sáng, cô gọi cho tôi từ một chiếc xe khách. “Tôi đã chạy thoát rồi,” cô nói, giọng hạ thấp như sắp khóc. “Cô có tiền không?” Tôi vẫn chưa ngủ, trong lòng cứ lo lắng về chuyến bay lúc chín giờ sáng của cô trở lại Manila, và đôi mắt ngấn lệ của cô cùng món nợ chưa trả hết. “Tôi có ba nghìn đồng. Hành lý vẫn ở công ty du lịch, giấy tạm trú và hộ chiếu đều ở bên môi giới,” cô nói một cách gấp gáp nhưng vẫn giữ giọng nhỏ, có vẻ sợ người ngồi bên cạnh nghe thấy, giọng run rẩy, căng thẳng…
Bài viết Thoát từng đoạt giải nhất về Văn học Báo chí lần thứ hai mươi tám của Trung Quốc Thời Báo Đài Loan, do thư ký của Hiệp hội Lao động Quốc tế Đài Loan (TIWA), cô Cố Ngọc Linh, ghi lại dựa trên trải nghiệm thực tế của nữ lao động ngoại quốc người Philippines, Carolyn, tại nhà máy điện tử Flying Alliance ở khu công nghiệp Tam Trùng, Đài Bắc. Ngành công nghệ cao này được Đài Loan bảo vệ qua các ưu đãi về thuế và từng được Tạp chí Thế Giới đánh giá là “Doanh nghiệp tăng trưởng nhanh nhất Đài Loan” nằm trong top hai mươi. Khi hoạt động kinh doanh và dòng tiền chuyển sang Trung Quốc đại lục, công ty tại Đài Loan nhanh chóng co cụm và ngập trong nợ nần. Việc rút vốn và phá sản trở thành “quy trình chuẩn”. Những người chịu thiệt hại nhiều nhất là các công nhân làm việc liên tục nhiều tháng mà không nhận được lương, vẫn đều đặn quẹt thẻ và ngồi lên dây chuyền sản xuất mỗi ngày. Phần lớn trong số họ là lao động nữ ngoại quốc, đã vay nợ ở quê nhà để tới đây làm việc.
Bài bào được xuất bản năm 2008
Trong lúc này, cách đơn giản, nhanh chóng và thuận tiện nhất đối với các công ty môi giới, những người thu phí dịch vụ hàng tháng từ lao động nước ngoài, là hủy hợp đồng rồi đưa họ về nước. Khi phát hiện vấn đề và nhận được thông báo về kết cục, thường thì đây chỉ là mở đầu cho bản nhạc buồn của lao động ngoại quốc.
Usman, 27 tuổi, đến từ đảo Sulawesi, Indonesia. Khi tôi đến trung tâm bảo vệ thăm anh ấy, anh chống nạng khập khiễng từng bước một, chân phải bó thạch cao dày. Cô Cố Ngọc Linh bên cạnh nhìn chúng tôi nói chuyện bằng tiếng Indonesia thì thở phào nhẹ nhõm, không kìm được mà chen ngang, nói rằng trong tháng vừa qua, Usman ít nói đến mức làm mọi người lo lắng, cộng thêm rào cản ngôn ngữ, mỗi lần thấy anh gọi điện cho gia đình xong, ánh mắt cô độc bất lực của anh khiến người ta xót xa nhưng cũng không biết hỏi thế nào. Usman dường như hiểu cuộc trò chuyện của chúng tôi, cúi đầu ngượng ngùng, nhẹ vỗ vào lớp thạch cao và chậm rãi kể về “cuộc chạy trốn” xảy ra cách đây một tháng.
Với thân phận là ngư dân, Usman trải qua một năm bốn tháng ở cảng Đào Viên, trừ thời gian ngủ thì toàn bộ thời gian còn lại là đánh cá và vá lưới – hai công việc không bao giờ có hồi kết. Nghỉ phép? Usman lắc mạnh đầu, gương mặt hiện lên vẻ “đừng mơ mà nghĩ tới”. Nếu lao động có thể đổi lấy mức lương hợp lý và xứng đáng, thì đối với nhiều lao động ngoại quốc muốn cải thiện cuộc sống cho gia đình, ba năm làm việc vất vả, chẳng có gì là không thể chịu đựng được. Mỗi tháng, Usman nhận từ môi giới 4.500 Đài tệ, dù đã phản ánh nhiều lần nhưng môi giới vẫn không phát bảng lương, thậm chí không buồn tạo lý do để khấu trừ một cách bất công. “Tôi có vài người bạn cùng làm ngư dân chỉ nhận được 1.000 đồng mỗi tháng,” Usman nói.
Ngày 14 tháng Tám năm nay (tức năm 2008), chủ sử dụng lao động đột nhiên bảo môi giới đưa Usman đi. “Tôi hỏi họ, tôi đã làm sai điều gì? Tôi chỉ đưa ra phản ánh hợp lý, tại sao lại tự ý sa thải tôi?” Thông thường, không có câu trả lời cũng là câu trả lời chuẩn; nhưng cũng không phải là không có dấu vết. Usman đã nghe nói vài lao động ngoại quốc làm ngư dân trước anh cũng bị chủ sa thải không lý do sau một năm rưỡi. Trong đêm đầu tiên chờ hồi hương tại ký túc xá của môi giới, Usman, trong cơn tuyệt vọng, không còn đường lui, quyết định liều mình một phen. Anh mô phỏng những câu chuyện trốn thoát từng nghe, buộc hai tấm ga giường làm dây và cột chúng giữa bản thân và khung sắt cửa sổ, đồng thời đặt cược tất cả mạng sống và tương lai của mình vào lần này. “Tôi đã không còn gì, không thể cứ vậy mà quay về, chỉ có thể trốn.” Lúc hai giờ sáng, anh nhảy từ cửa sổ tầng ba xuống, không ngờ dây đứt ngay lập tức. Anh ngã mạnh xuống đất, gãy xương sống ngực và gãy chân phải.
Nguyên nhân chính: Không được tự do chuyển đổi chủ lao động
Tình huống tồi tệ nhất không gì khác ngoài việc này, nhưng nếu chạy trốn, có thể sẽ có cơ hội.” Đây là tâm lý điển hình của hầu hết lao động ngoại quốc khi họ lựa chọn bỏ trốn. Trong sự ràng buộc của hợp đồng và gánh nặng nợ nần, đây là con đường cuối cùng không còn cách nào khác.
Theo số liệu mới nhất từ Ủy ban Lao động và Cục Di trú, trong tổng số 374,147 người nước ngoài, có 24,086 người mất tích và chưa được tìm thấy, trong đó hơn 18,000 là nữ lao động. Họ tản mác khắp các ngóc ngách của Đài Loan, có người nhờ “khôi phục tự do” mà giành được không gian thương lượng trong thị trường chợ đen “thuận lợi” hơn, nhưng nhiều người khác lại sống trong nỗi sợ hãi vì mang danh “phi pháp,” bị đe dọa bởi các công ty môi giới và chủ lao động với việc “báo cảnh sát” bất cứ lúc nào. Trong điều kiện lao động bất công theo vòng luẩn quẩn, những lao động không có tư cách hợp pháp thường bị ép buộc làm việc trong những điều kiện lao động khắc nghiệt hơn.
Dù hoàn cảnh có thể khác nhau, nhưng điểm chung là: phải lẩn trốn, lo lắng, không có quyền được ốm đau, và không nơi kêu cứu; thậm chí trong quá trình bị truy lùng, có không ít trường hợp bị ngã hoặc gặp tai nạn dẫn đến tử vong.
Chính phủ và truyền thông Đài Loan thường gọi họ là “lao động bất hợp pháp,” thậm chí vô tình hay cố ý coi “lao động bất hợp pháp” như tội phạm xã hội, đây thực ra là một sự kỳ thị quá đơn giản. Trước lời kêu gọi đầy đau đớn của các nhóm lao động ngoại quốc – “lao động bỏ trốn không phải là tội phạm, họ cũng là nạn nhân,” Đội trưởng Đội đặc nhiệm thuộc Cục Di trú Đài Bắc, Trần Quán Nguyên, suy nghĩ rất lâu rồi nói, thực tế, các trường hợp lao động bỏ trốn phạm tội là rất ít, nếu có tội thì cũng chỉ là vi phạm hành chính như lưu trú quá hạn, làm việc bất hợp pháp mà thôi.
Tuy nhiên, con người không có cái gọi là hợp pháp hay bất hợp pháp, chỉ có giấy tờ và tư cách là nằm trong hay ngoài pháp luật. Luật sư Tôn Tắc Phương của Quỹ Trợ giúp Pháp lý, người lâu nay hỗ trợ các vụ kiện của lao động ngoại quốc, khi được phỏng vấn cho biết, họ chỉ có thể được coi là lao động không có giấy tờ (undocumented); dù có là “bất hợp pháp,” thì quan hệ lao động vẫn tồn tại.
Đối với tình trạng sử dụng còng tay khi giam giữ hoặc truy bắt lao động ngoại quốc, Tôn Tắc Phương cho biết, “họ không nên bị đối xử như tội phạm nghiêm trọng, họ chỉ vi phạm các quy định hành chính như Luật Dịch vụ Việc làm và Luật Di trú, họ hoàn toàn không vi phạm bất kỳ luật hình sự hoặc dân sự nào.”
Từ năm 2003, số liệu về lao động nước ngoài mất tích đã tăng dần từ vài nghìn người mỗi năm, và mỗi con số đều giống như những sợi dây nối nhau, mỗi khi kết nối lại là một chuỗi câu chuyện đầy nước mắt và những vấn đề mang tính hệ thống gắn kết lẫn nhau. Đơn vị phụ trách ngoại vụ của Cục Cảnh sát khi được phỏng vấn thừa nhận rằng, từ xu hướng tăng trưởng trong các con số, rõ ràng có những khía cạnh trong chính sách cần được xem xét lại.
“Nếu họ thực sự có ý định bỏ trốn, thì ngay từ đầu tại sao phải tốn công vay nợ ở quê nhà để sang Đài Loan? Họ hoàn toàn có thể vào Đài Loan dưới dạng du lịch để làm việc.”
Chuyên viên cao cấp Lý Huệ Linh của Văn phòng Lao động Ngoại quốc Công giáo Việt Nam cho biết, quá trình chuyển từ hợp pháp sang bất hợp pháp cần phải được xem xét vì sao lao động lại mạo hiểm như vậy để trốn thoát khỏi chủ lao động theo hợp đồng? Liên minh Công nhân Di trú Đài Loan, bao gồm hơn mười tổ chức lao động ngoại quốc, đã nhiều lần gửi thư yêu cầu, chỉ rõ rằng “chính sách là nguyên nhân gây ra vấn đề,” trong đó chính sách cấm lao động ngoại quốc tự do chuyển đổi chủ lao động của Ủy ban Lao động chính là thủ phạm chính.
Khi thực hiện phỏng vấn với những lao động ngoại quốc đang khiếu nại, Hiệp hội Lao động Quốc tế từng ghi lại một hình ảnh chân thực: vài năm trước, Adi, một nữ lao động từ Indonesia đến Nam Cảng làm công việc chăm sóc, chưa làm được một năm thì ông lão cô chăm sóc qua đời. Trong đám tang, trong số tám người con và hàng chục cháu, chắt của ông, không có ai khóc thương hơn Adi. Người ngoài có lẽ không hiểu được, phần lớn những giọt nước mắt đó là vì khoản phí môi giới chưa trả hết ở quê nhà, và những “rủi ro” khó lường trong quá trình chuyển đổi chủ lao động.
Theo quy định của “Luật Dịch vụ Việc làm,” khi chủ lao động qua đời, lao động có thể chuyển đổi chủ, nhưng nếu không tìm được trong vòng hai tháng thì phải rời khỏi Đài Loan. Theo kinh nghiệm xử lý các vụ việc của hầu hết các nhóm lao động ngoại quốc, môi giới không sẵn lòng hỗ trợ lao động chuyển chủ và thường viện nhiều lý do để trục xuất họ về nước, rồi lấy hạn ngạch để mang lao động mới sang và thu phí môi giới lại từ đầu. Lý Huệ Linh cho biết, điều làm người ta phẫn nộ nhất là “phương thức phạm tội” mới nhất của một số môi giới: sau khi lao động nhập cảnh, họ không làm thủ tục xin bất kỳ giấy tờ cư trú nào cho lao động, tịch thu hộ chiếu, điện thoại, kiểm soát hoàn toàn mọi hành động của họ, và tùy ý đưa họ đến bất kỳ gia đình nào cần người giúp việc chợ đen. Cho đến khi môi giới thấy lao động không còn giá trị sử dụng nữa, họ sẽ cố tình sai khiến lao động ra ngoài mua đồ, rồi quay đầu báo cảnh sát tố cáo “lao động của mình bỏ trốn.” “Trên đường lao động quay lại thì không hiểu sao bị bắt vào đồn cảnh sát, vì không có giấy tờ cư trú hợp pháp nên ngay lập tức bị gán mác bất hợp pháp.”
Phó Giáo sư Lam Bội Giai của Khoa Xã hội, Đại học Quốc gia Đài Loan, người lâu nay quan tâm đến các vấn đề lao động ngoại quốc và người di cư mới, cho biết lợi ích của môi giới được gắn kết với chính sách cấm chuyển đổi chủ lao động. Chỉ cần hệ thống này còn tồn tại, các công ty môi giới sẽ có động cơ kiếm lời khi hợp tác với chủ lao động để tùy tiện trục xuất những lao động “không nghe lời,” rồi lại thu phí từ những lao động mới. Một số chủ lao động không chỉ không chịu bất kỳ thiệt hại nào mà còn có thể nhận được hoa hồng.
Tổng kết: Nhìn lại bây giờ khi chính quyền đã mở ra việc chuyển chủ cho lao động, nhưng số người chạy trốn vẫn gia tăng. Vậy vấn đề là do đâu? Sự đàn áp và làm việc không minh bạch đầy lợi ích cá nhân của môi giới, hay ý thức lao động?
Nguồn: 【特別報導】逃生 台灣的無證外勞